About Me

người làm chiến lược

Thiền trong Võ Đạo




1. Nguồn gốc Thiền và Võ - Thiền trong Võ

Theo lịch sử Thiền tông, vào năm 520 Ngài Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) đã vượt biển đến Trung Hoa. Ngài là vị tổ thứ 28 của thiền Ấn Độ và là vị Sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa. Cuộc hải trình kéo dài 3 năm, và lúc đó ngài đã 80 tuổi. Lúc cập bến miền Nam Trung Hoa, ngài đã giảng về yếu lý Thiền tông cho Lương Vũ Đế. Vì nhà vua không nắm được ý chỉ thiền, Bồ-đề-đạt-ma bèn rời khỏi nước Ngụy, vân du đến đỉnh Thiếu Thất của ngọn Tung Sơn, ngồi quay mặt vào vách 9 năm. Sau đó, Thiền tông Trung Hoa đã khai hoa kết trái.

Về phương diện võ học, tương truyền Bồ-đề-đạt-ma, dù tuổi đã ngoài bát tuần, đã dạy võ công cho đệ tử ở chùa Thiếu Lâm, cả nội công và ngoại công. Nhờ đó họ có thể trở nên mạnh mẽ hơn, tinh thần tỉnh thức hơn sau những giờ tham thiền bất động. Nhiều sách võ thuật được cho là của Bồ-đề-đạt-ma biên soạn, như quyển Dịch cân kinh cùng các tác phẩm về nội công tâm pháp. Và cũng theo truyền thuyết, nhờ có sự phối hợp giữa thiền và võ công nên phái Thiếu Lâm một thời được đề cao là Võ lâm Bắc đẩu. Do đó người ta thường gán cho Bồ Đề Đạt Ma vai trò Tổ Sư của Võ Đạo, dù không có văn kiện Phật Giáo chính thống nào cho biết chính xác điều này.

Tiếp đến đời Tống, một vị lão sư hào kiệt là Trương Tam Phong, xuất thân từ chùa Thiếu Lâm, sáng chế ra Thái cực quyền, trở thành trưởng môn phái Võ Đang. Môn võ này chú trọng nhiều đến sự điều hòa hơi thở và để cho các luồng chân khí trong cơ thể lưu chuyển tự nhiên. Dù các câu chuyện võ thuật Trung Hoa nói trên có nhuốm màu thần bí, nhưng trên thực tế thiền đã nâng cao ngành võ lên hàng đạo: Võ đạo.


2. Thiền sư lấy võ học cảm hóa con người

Mai Văn Phát từng là cái tên nổi tiếng trong giới võ thuật Sài Gòn thập niên 60. Ông sáng lập ra môn phái Trung Sơn, sau đó xuất gia truyền bá võ học với tinh thần lấy võ cảm hóa nhân cách con người. 

Bén duyên võ học nơi cửa thiền

Mai Văn Phát (1917-1997) sinh ra trong gia đình nông dân nghèo thuộc xã Thới Đông, huyện Ô Môn (Cần Thơ). Từ nhỏ cậu bé Phát vốn gầy gò. Năm 7 tuổi, cậu đau ốm thường xuyên. Đến năm 10 tuổi, những trận ốm triền miên tưởng chừng đã quật ngã đứa trẻ. 

Cha mẹ ông đi khắp nơi tìm thầy thuốc cao tay mong mỏi chữa bệnh cho con trai. Lúc bấy giờ, hay tin ngôi chùa trên núi Thất Sơn thuộc Châu Đốc (An Giang) có vị cao nhân giỏi võ với khả năng chữa bệnh cao siêu nên cha mẹ Phát liền tìm đến gửi gắm đứa con tội nghiệp. 

May mắn thay, sau một thời gian được sư thầy vận nội công đẩy độc tố trong người ra, cậu bé dần khỏe mạnh. Cũng từ đây, cậu bé quyết định theo con đường võ thuật. 

Vị sư thầy trụ trì ngôi chùa nói trên chính là thủ hạ của tướng Nguyễn Trung Trực, người anh hùng đã chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu của Pháp trên dòng sông Nhật Tảo. Khởi nghĩa sau đó thất bại, chủ tướng bị giặc chặt đầu, ông đành lên núi Thất Sơn lánh nạn, mai danh ẩn tích dưới pháp danh Thích Thiện Hoa. 




Ở nơi hoang vu náu mình, sư trụ trì vẫn không quên nhiệm vụ của vị chủ tướng trước lúc chết và bí mật rèn luyện võ nghệ cho những thanh niên yêu nước trong vùng chờ thời cơ khởi nghĩa. Mai Văn Phát trong quá trình ở chùa, nhờ thông minh, ham học hỏi, chịu khó rèn luyện nên vượt trội về võ thuật so với các đồng môn và thành đệ tử ruột của vị thiền sư ẩn danh.

Sau bao năm tháng khổ luyện, cậu thanh niên tuổi đôi mươi đã sớm tinh thông những quyền cước của võ trận quân sự trong đội nghĩa quân bí mật. Tuy nhiên, sau 10 năm xa cách, Mai Văn Phát không chịu nổi sự nhớ nhung quê nhà. Vậy là, cậu từ biệt sư phụ về Cần Thơ sống với cha mẹ và tiếp tục niềm đam mê võ học.

Chàng trai trẻ mở lớp dạy võ cho các trai tráng trong làng để rèn luyện sức khỏe. Một hôm, có bậc cao thủ người Trung Hoa tên là Lào Thêm đi ngang qua sân tập võ, chợt nhìn thấy khí chất quân tử và phong thái tinh anh của Mai Văn Phát đang hướng dẫn tập luyện cho các môn sinh, bèn sinh lòng cảm mến và ngỏ ý thu nhận làm đệ tử để truyền dạy tuyệt kỹ võ công.

Phát nhanh chóng lĩnh hội được tinh hoa võ học của vị cao thủ này và giữ trọn lời hứa đem võ thuật cống hiến vì cuộc sống con người. Chàng thanh niên ban ngày tập luyện võ cho thanh niên, ban đêm chèo xuồng luồn lách qua những kênh rạch của Cần Thơ để vận chuyển thuốc men, lương thực cho bộ đội đang lẩn trốn trong rừng.

Người trong vùng ai cũng nể phục chàng thanh niên vừa giỏi võ, dũng cảm lại giàu tinh thần yêu nước trong khi ở miền đất tạm chiếm này, quân địch cày xới và truy lùng cách mạng ráo riết. 

Chân lý dùng võ học cảm hóa con người

Đến năm 1950, khi hoạt động ngầm bị lộ, võ sư Phát rời quê nhà lên Sài Gòn sinh sống. Tại đây, ông vừa mở lớp dạy võ tại nhà vừa bôn ba khắp nơi kiếm sống trong những ngày tháng cơ cực. 

Nghe tiếng võ sư yêu nước đã lâu, vị sư thầy trụ trì chùa Phước Viên (Quận 1, TP.HCM) mời ông về dạy võ cho chi đoàn phật tử Trúc Lâm. Tại đây, Mai Văn Phát quyết định xuống tóc xuất gia, lấy pháp hiệu là Thích Thiện Tánh. Mong muốn của ông là dùng võ học để cảm hóa và rèn luyện nhân cách con người hướng về điều thiện, đồng thời bồi đắp tinh thần dân tộc cho thế hệ trẻ trong thời kỳ đất nước đang lâm nguy.

Thời kỳ này, đế quốc Mỹ thay chân Pháp tiếp tục thực hiện chính sách đầu độc nhân dân Việt Nam để làm giàu cho chúng và làm suy yếu con người dễ bề cai trị. Căm tức bọn đế quốc trước tình trạng hàng ngàn người dân chìm đắm trên bàn đèn thuốc phiện, hòa thượng Thích Thiện Phát đã khuấy động phong trào tập võ để rèn luyện thân thể cho mọi người dân nhằm chống lại hiểm họa bàn đèn.

Bấy giờ sân chùa trở thành võ đường thực sự, thu hút hàng ngàn môn sinh theo học với số lượng đông nhất so với các lò võ. Năm 1964, thiền sư Phát chính thức thành lập môn phái Trung Sơn võ đạo. Đây là sự kết hợp tinh hoa của võ Việt quân sự và võ thuật Trung Hoa Thiếu lâm.




Với tâm thế của một người xuất gia, ông không bao giờ chủ trương đấu đài cho các môn sinh của mình. Ông từng nói: “Võ đài là chốn gian lận”. Bởi vậy vị sư phụ cấm học trò đi thượng đài mà chỉ luyện võ để tự vệ và rèn luyện sức khỏe bản thân. 

Thế nhưng vẫn có đệ tử trốn sư phụ đi giao đấu với các võ sĩ khác khiến ông giận đến nỗi không nhìn mặt họ. Vị thiền sư luôn tâm niệm học võ không phải để đánh người bị thương mà chỉ sử dụng trong trường hợp bất khả kháng.

Đến nay khi đại sư Mai Văn Phát đã viên tịch, những đệ tử của ông vẫn đang dốc sức truyền dạy võ thuật, làm rạng danh hơn nữa Trung Sơn võ đạo do sư phụ sáng lập. Một trong những đệ tử ruột của tổ sư tiết lộ: “Trung Sơn võ đạo không đặt nặng vào công phu ghê gớm mà chủ yếu dựa vào kỹ thuật và đường hướng vận động khéo léo của tứ chi tạo nên sự biến hóa khôn lường hạ gục đối thủ”.

“Đó là sự kết hợp của vũ khí toàn thân: chỏ gối, tay, chân để áp sát đối phương theo bộ pháp (cách di chuyển) linh hoạt; từ đấy tấn công bằng cách đánh lạc hướng khôn khéo làm đối thủ không kịp trở tay. Tuy đòn thế không thật mạnh mẽ nhưng vô cùng biến ảo, đưa đối thủ vào trong tầm ngắm dễ dàng”, để tử tổ sư Mai Văn Phát chia sẻ. Hiện nay, môn phái đã phát triển lên hơn 30 võ đường trong nước. 


3. Luận Thiền, Võ Thuật, Võ Đạo

THIỀN

Thiền là pháp môn và cũng là tông phái của nhà Phật, có tên gọi Thiền đạo tu tập. Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều quy về môt chữ “Tâm”. Chính vì vậy Đạt Ma Tổ sư truyền dạy: “Giáo ngoại biệt truyền; bất lập văn tự; trực chỉ nhân tâm; kiến tánh thành Phật.”

Thiền (Ch’an) là thuật ngữ Hán Việt được phiên âm từ Dhyānacủa tiếng Phạn hay Jhàna của Pali, gọi đầy đủ là Thiền Na (Ch’an Na).Tự điển Sanskrit – English (bhagavata.org) định nghĩa Thiền làcontemplation, meditation, thought, reflection… (suy tưởng, mặc tưởng, tập trung lắng đọng, tĩnh lự…)    

Thiền đứng riêng một chân trời cùng tuyệt bất khả tư nghị, đạo cảm thông không thể nghị bàn, như câu chuyện Một tách trà trong Góp nhặt cát đá: Vào thời Minh Trị (1890 - 1912), Nan-in một Thiền sư Nhật, tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về Thiền. Nan-in mời trà, ông đã rót đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm. Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kềm mình được nữa: “Đầy quá rồi, xin đừng rót nữa.” “Giống như cái tách này”, Nan-in nói, “Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được. Trừ phi ông cạn cái tách của ông trước?” (Thiền sư Muju - Shaseki-shu “Sa thạch tập” - Đỗ Đình Đồng dịch - NXB Lá Bối - Saigon 1972)                      

Bồ đề vốn không cây; Gương sáng chẳng phải đài; Xưa nay không một vật; Bụi bặm bám vào đâu? (Bồ Đề bổn vô thụ; Minh kính diệc phi đài; Bản lai vô nhất vật; Hà xứ nhạ trần ai? - Lục tổ Huệ Năng). Thiền xé tan bức màn vô minh, đạp đổ bức tường chấp ngã để giác ngộ, giải thoát. Giới - định - tuệ - giải thoát - giải thoát tri kiến là năm vị hương thơm của Thiền. Con người Thiền tự do, hòa bình, an lạc đích thực với một sức sống chân thật giữa thế gian.


VÕ

Hạ tầng, võ là quyền cước, binh khí, đối kháng, tự vệ, binh pháp, binh thư, kỹ thuật, chiến thuật, chiến lược, nghệ thuật quân sự, mưu sinh thoát hiểm… mang lại lợi ích cho sức khỏe, ngăn ngừa bệnh tật và sống lâu, hành hiệp chính nghĩa, học được nhiều đức tính quý báu trong đời sống cho người tập luyện.

Thượng tầng, võ là đạo, là nghệ thuật sống, là con đường đưa đến chân - thiện - mỹ, là nghệ thuật nuôi dưỡng tinh - khí - thần, tâm hợp ý, khí hợp lực. Triết lý võ là tinh thần thượng võ. Huyết mạch võ là nhân bản. Đỉnh cao võ là trí tuệ. Võ là văn hóa truyền thống dạy cho người học biết nuôi dưỡng nhân tính và sống theo đạo lý làm người trong tôn chỉ giáo dục nhân cách cao xa. Việc luyện tập võ thuật là một cuộc trường chinh để tự thắng chính mình.

Đạo là cốt và Đức là tủy của võ thuật truyền thống. Người học võ có được 3 điều hạnh phúc: Một thân thể khỏe mạnh, một tinh thần tự do, một trái tim trong sạch.

"Học võ là học đạo, trước tiên là đạo làm người, học võ còn để rèn luyện thân thể, lấy "dục thể, dục trí, dục đức" làm mục đích phấn đấu, bất luận trong hoàn cảnh nào, tinh thần thượng võ phải được tôn trọng. Người biết võ nên đóng góp công sức vào những việc ích nước lợi dân. Người giỏi võ mà kém trí đức chỉ là hạng võ biền hại người hại mình."  (Võ sư Hoắc Nguyên Giáp - Tinh võ môn)


Học võ ai cũng cần có một người thầy. Người giỏi võ không phải là người đánh ngã được người khác mà là người tự thắng chính mình, giữ được tinh thần võ đức. Một kiếm sĩ luôn phụ thuộc vào lưỡi kiếm sắc bén, cuối đời cũng không bao giờ hiểu được ý nghĩa của kiếm đạo. Bởi vậy người xưa nhắn nhủ: “Núi có cao mấy đi chăng nữa cũng vẫn thấp hơn bụi cỏ mọc ngay trên đỉnh của chính nó”.


THIỀN, VÕ THUẬT, VÕ ĐẠO

Vấn đề đầu tiên phải đặt ra là Phật Giáo vốn chủ trương hạnh Nhẫn Nhục, tính Từ Bi, tinh thần Lục Hoà, nên khó mà đứng chung được với Võ Đạo, vốn là một nghệ thuật chiến đấu, với nhiều khả năng gây thương tích, tàn tật, chết chóc

Trước hết hãy quan sát thiên nhiên:

Hàng dừa lúc lắc, uốn cong mình, đong đưa theo gió, và ngả bóng nghiêng dài xuống bờ cát trắng. Xa xa, từng đợt sóng cuộn lăn tăn, vỗ ì ầm vào ghềnh đá, và làm bắn tung lên những bọt nước trắng xóa.  Phút chốc, tiếng sóng biển, tiếng hải âu và tiếng thì thầm của gió giao hòa thành một bài nhạc êm dịu, ngoạn mục phụ họa cho nhịp điệu lắc lư của hàng dừa. Cảnh vật của biển thật thơ mộng, thật thanh bình và hiền hòa -- nhưng biển có lúc giận không? Có chứ! Cơn thịnh nộ của biển đưa đến bão táp phong ba và những trận cuồng phong càn quét mọi thứ thành bình địa. Nhưng hàng dừa vẫn ngả nghiêng và thướt tha -- có lúc như trầm tư mặc tưởng và có lúc như mặc nhiên, bất chấp sự đe dọa của trận cuồng phong.  “Nhu thắng Cương”. Chơ vơ một góc trời, ghềnh đá phẳng lỳ hứng chịu từng đợt sóng liên tục đập vào như vũ bão.  Nương theo đó, những góc cạnh thô thiển,  nhô lên tuy mạnh mẽ nhưng lẻ loi của ghềnh đá, nay đã dần dần rơi rớt theo thời gian và tan theo bọt sóng.  Ghi nhận lại một chứng tích cho tạo hóa, ghềnh đá trơn tru, rắn chắc biểu lộ sự quả quyết và sự nhẫn nại phi thường, chịu đựng hằng bao thế kỷ đã qua.  “Cương và nhẫn.”  Trong thiên nhiên là thế, vậy thì trong đời sống hằng ngày tìm đâu ra được những đặc tánh trên? Võ thuật, võ đạo và thiềnVõ thuật có cương nhu; võ đạo và thiền có nhẫn; thiền có thêm trí giác.


Võ thuật ở bình diện thấp diễn tả những kỹ thuật và phương pháp luyện tập cho thân thể được cường tráng, tạo khí lực đủ để tự vệ  khi gặp bất trắc, gia tăng sức đề kháng hay phản công khi phải đối đầu với những áp lực đe dọa từ bên ngoài hay để khống chế đối phương ở trình độ cao.  biểu hiện sức mạnh áp đảo, bắt người phải tuân phục mình. Thuật nói lên tánh đa dạng qua các màu sắc môn phái và đặc điểm riêng biệt của từng vùng miền.  Kỹ năng hữu hiệu nhất qua việc rèn luyện của võ thuật là việc vận dụng các bộ phận cơ thể như các khí cụ chiến đấu để bảo vệ, phát huy sức mạnh và mức linh hoạt, gia tăng lòng tự tin và đem lại sự an toàn để vượt qua mọi tình huống nguy cấp. Qua một thời gian dài khổ luyện và qua những kỹ thuật cơ bản lập đi lập lại trong các bài quyền như cương, nhu, khí, lực, tránh, né, công thủ liên hoàn, các thao tác của cơ thể, nhờ đó, sẽ dần dần trở thành các phản xạ tự nhiên và ứng phó linh động hơn.  Đạt được như vậy là do trọng tâm của võ thuật, qua sự luyện tập thuần thục các bài quyền, đặt ở cái “dụng” của chiêu thức chứ không phải cái “hình” của chiêu thức.  Đó là nguyên tắc “giữ Hình để đạt Dụng.”  Ở trình độ cao, người sử dụng võ thuật có thể dẫn dụ địch xuất thủ theo ý muốn và dồn địch vào thế bị động.  Nhưng đây không phải là mục đích tối hậu cho người học võ mà chỉ là một trong những con đường dẫn dắt người tập đến gần tới Đạo hay phần tu sửa tâm tánh, rèn luyện nội tâm để không sa vào những sai lầm, mê muội.

So sánh với Phật giáo, võ đạo thể hiện một phần nào tinh thần của hạnh tu Tiểu Thừa và Đại Thừa.  Tiểu Thừa là phần tự tu, tự rèn luyện cho chính bản thân mình để kiện toàn cơ thể, và tự khắc phục bản thân. Người tập võ luyện tập thường xuyên để có cái thân mạnh khoẻ, gia tăng hệ thống miễn nhiễm và tiêu trừ bệnh tật.  Với cái thân cường tráng đó, võ sinh sẽ cảm thấy yêu đời, hoạt bát và vui vẻ hơn. Do vậy, họ sẽ bớt gắt gỏng với người đối diện và tránh tạo thêm nghiệp sân. Về phần tâm, do sự bền chí để đạt được các đẳng cấp cao, võ sinh sẽ thu lượm thêm nhiều kiến thức và, do vậy, tầm nhìn sẽ càng ngày càng được mở rộng. Hơn thế nữa, qua một thời gian dài khổ luyện và quan sát, võ sinh sẽ cảm nhận rõ được tình thương và phong cách của người thầy qua sự tận tụy truyền đạt và giáo huấn về nền tảng đạo đức cho người học võ: phải biết khiêm tốn, hoà nhã với các bạn đồng môn, giúp đỡ lẫn nhau trong tình huynh đệ, kính nể cấp trên, không bắt nạt kẻ dưới, không khoe khoang, kiêu ngạo,  không ganh tỵ với người giỏi hơn mình và luôn phát huy được tinh thần nghĩa hiệp. Khi tâm của người võ sinh được khai mở, con đường Đại Thừa sẽ bắt đầu hé lộ. Khởi sự như thế nào? Bắt đầu bằng những công việc như giúp người đạt được trình độ như mình mà không ích kỹ, giúp người gặp cảnh khốn cùng khi có điều kiện, cung cấp thuốc men hay giúp chữa lành cho người đang bị đau đớn khi mình có khả năng và ở lãnh vực luật pháp cho phép, can trường bảo vệ cho người cô thế trước ách hống hách của cường quyền, hay đóng góp công sức cho các sinh hoạt văn hoá hữu ích ngoài xã hội.



Võ đạo cũng thể hiện được một phần nào lòng Từ, Bi, Trí, Dũng đề cập trong giáo lý của đạo Phật.  Lòng Từ là lòng thương người.  Các bậc võ sư thời xưa, trước khi hạ sơn, phải học cả võ thuật lẫn y đạo vì “khi biết cách giết người thì phải biết cách cứu người.”  Võ đạo còn thể hiện được sự nhân hậu qua tinh thần không những không muốn làm thương tổn hay gây thương tích đến người mà, hơn thế nữa, còn phải tìm đủ mọi cách để nâng đỡ cho họ có được cơ hội thăng tiến tốt đẹp như mình!  Điều này có thể thấy được qua phong cách cởi mở và sự nâng đỡ vô vụ lợi cuả các bậc võ sư trưởng thượng trong Tổng Hội Phát Triển Võ Thuật Thế Giới hay qua sự mến mộ nhân tài, sự tận lực tạo điều kiện thuận lợi để  truyền đạt tinh hoa võ thuật cho các cá nhân xuất chúng để họ đại diện cho cộng đồng đi “đánh chuông xứ người” hay cho các thế hệ mai sau của vô số các bậc võ sư thượng thặng và có lòng tại các võ đường địa phương.  Lòng Bi là mong muốn người khác được vơi đi nỗi khổ, bớt đi đau đớn và có được sự an vui trong cuộc sống.  Tổ Sư Morihei Ueshiba của Aikido đã có câu nói:  “Anh là một võ sĩ? Chừng nào anh tự cứu lấy anh mà không làm đau đớn thiệt hại gì cho địch thủ thì anh mới xứng đáng xưng mình là võ sĩ?” Thêm vào đó, nguyên tắc “hạ thủ lưu tình” (nhẹ tay khi ra đòn) khi phải đối đầu hay sự áp dụng những chiêu thức cầm nã (bắt, chụp, khoá, bấm huyệt đạo) để khống chế địch thủ mà không gây thương tích khi không cần thiết đều nói lên được một tinh thần thượng võ cao độ. Cái Trí của người tập võ là sự tích tụ kiến thức, biết phân biệt phải trái, biết tôn trọng sự trung tín, không làm trái với đạo lý làm người, không vì lợi lộc hay hư danh mà chà đạp lên danh dự người khác. Ngoài ra, cái trí còn bao gồm sự uyển chuyển trong cách cư xử, giao tế để không bị mắc kẹt vào những hoàn cảnh khó xử hay sự vận dụng thuật biết người biết ta “tri kỷ tri bỉ” để biết khi nào cần phải vận sức đối chọi hay khi nào nên chờ một dịp khác. Cái Dũng của người tập võ là sự kiên trì vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích, “thắng không kiêu, bại không nản”, tinh thần bất khuất khi phải trực diện với cường địch, và sự can trường ủng hộ kẻ thấp cổ bé miệng bị hiếp đáp.  Võ đạo đem đến phần trí giác (cái biết đúng) nhưng, muốn thực chứng, võ sinh phải đào sâu vào nội tâm, tìm đến ngưỡng cửa của Thiền.   

Tự tánh của bài quyền đã là một dạng thiền kiểm soát thân tâm qua sự chú tâm và sự cài đặt cái hồn đến từng cử động khi đi quyền, sự thả lỏng cơ thể qua các thế múa uyển chuyển, chậm rãi, và liên tục của Thái Cực Quyền, hay sự tĩnh động qua các động tác cương nhu, nhanh chậm. Nhưng lúc không đi quyền thì sao? Cách hành xử của chúng ta sẽ bị nghiệp chi phối, dẫn dắt. Gặp chuyện không vui hay không vừa ý, chúng ta vẫn nóng nảy như thường. Chúng ta vẫn bị cảm thọ làm che mờ đi “chân giác”, cái bất sanh bất diệt trong thức. Một trong những phương pháp để kéo dài sự tỉnh thức, kiểm soát thân tâm và có được sự trầm tĩnh đó là tọa thiền. Phương pháp này đòi hỏi một sự truyền thừa chánh thống của một bậc chân sư và sự kiên trì tập luyện.  Có thâm nhập sâu vào trong các tầng thiền định, chúng ta mới có duyên  hiểu được thế nào gọi là “Vạn Vật Đồng Nhất Tâm” và biết được cái tâm thật của chúng ta. Lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu chúng ta chỉ là một hạt cát của sông Hằng hay một hạt bụi trong vũ trụ. Hiểu đúng như thế, cái ngã của chúng ta sẽ từ từ thu nhỏ lại.  Từ đó, tình yêu thương chân thật, khi bộc phát, sẽ là một động lực chánh dẫn dắt chúng ta làm trong mọi hành động.



Theo tôi, thì trong bối cảnh một nước Trung Hoa đầy bạo lực vào lúc ấy, không có môi trường nào cần được truyền Đạo Từ Bi bằng môi trường Võ Nghệ. Tổ Đạt Ma, hay một truyền nhân của Ngài, đã chứng minh được rằng: với một kỹ thuật cao, người ta có thể giải quyết một cuộc tranh chấp võ lực mà không cần phải giết hay làm cho đối thủ bị thương. Một cao thủ thâm nhập tinh thần Thiền Đạo có thể khắc phục đối phương mà vẫn giữ vững tâm Từ Bi. Người ấy có thể chuyển hoá Tâm của người muốn hại mình mà không làm hại người ấy. Đó là khía cạnh thứ nhất của vấn nạn « Thiền trong Võ ».

Khía cạnh thứ hai là Võ Đạo là một phương pháp hành thiền hiệu quả. Không phải chỉ trong lúc chiến đấu, mà chủ yếu là trong lúc tập luyện. Nguyên do như thế này :

Nếu quan niệm Thiền như một phương pháp an tâm, thì ta sẽ thấy ngay rằng Tâm tương đối dễ « an » trong điều kiện tĩnh lặng, như khi ngồi bất động. Nhiều trường phái Võ Học bắt môn sinh ngồi tĩnh lặng mỗi đầu buổi tập. Nhưng đến khi đứng lên, bắt đầu cử động, là Tâm bắt đầu dao động. Khi tập các động tác chậm rãi khoan hoà, như Thái Cực Quyền chẳng hạn, thì Tâm tuy có khó « an » hơn lúc ngồi lặng lẽ một chút, nhưng cũng còn chưa đến nỗi nào. Nếu bây giờ tập đấm đá vũ bão, vừa nhanh vừa mạnh, thì việc « an » Tâm trở thành rất khó. Việc ấy lại càng khó hơn bội phần khi tập « đối luyện » (có quy ước) với một người khác. Rồi đến khi giao đấu tự do, với tất cả những phức tạp và lo sợ của nó, thì « an » Tâm chỉ đạt được ở một trình độ cực cao. Người tập võ có thể nhắm đến trình độ ấy. Khi ngồi tĩnh tâm lúc đầu buổi tập, anh ta ổn định tâm của mình trong sự an tĩnh, và tiếp tục « trụ » trong ấy khi anh ta đứng dậy tập nóng người, tập các động tác nhẹ nhàng, hay các động tác mạnh bạo, hay khi tập đối luyện, và rốt ráo là khi giao đấu tự do. Đến cuối buổi tập, khi trở về tư thế ngồi tĩnh tâm, anh ta nhận thấy Tâm mình từ đầu vẫn không thay đổi … Rồi khi bước vào các sinh hoạt của đời sống, Tâm vẫn luôn an tĩnh. Ở trình độ ấy, anh ta trở thành một cao thủ, dù cho trình độ kỹ thuật hay thể chất của anh ta thế nào đi chăng nữa. Vì trong Võ Học cũng như trong nhiều lãnh vực khác, « Tâm » chính là yếu tố quyết định !


– Người đàn ông có khả năng để xe ô tô hàng tấn cán qua người?

– Đi chân trần trên những hòn than còn đỏ lửa?

– Cắm dây điện vào người sau đó nối nguồn điện nhưng ông ta không làm sao?

– Họ đều là những người theo tập luyện một môn võ nào đó?

Tôi chưa từng tin rằng họ có thể làm được những điều kỳ lạ đó. Nhưng đến một ngày…

Tôi tận mắt chứng kiến một thanh niên mang võ phục đóng đinh vào cổ, dùng chính đầu đinh còn lại treo một xô nước đầy đi vòng quanh sân. Tôi thấy máu chảy. Nhưng đôi mắt anh ta dường như vô định. Có gì đó khiến anh ấy quên hết nỗi đau đớn.

 “Tại sao anh lại làm được điều đó?”; “Anh luyện tập như thế nào?”; “Lúc ấy anh ấy đang nghĩ đến gì?”. Anh ấy chỉ trả lời tôi vẻn vẹn rằng: “Kiên trì tập luyện, lấy Thiền làm gốc”.

Trong đầu tôi chợt sáng lên câu nói của một vị triết gia: “Thiền định sẽ đưa đến trí huệ, tâm thần an định ắt trí huệ sinh”.


Thiền trong luyện tập võ thuật cũng như việc tìm kinh tu tâm, là con đường đi đến một trạng thái nhất định nào đó. Khi trạng thái này đạt đến đỉnh cao, con người quên đi vui buồn thế thái, quên những đau đớn tinh thần lẫn thể xác.


Ngày xưa, khi sư tổ Bồ Đề Đạt Ma sang đất Trung Hoa để truyền bá đạo Phật, ngài đã từng sáng tác “Dịch cân kinh”, và khai sáng ra võ thuật Thiếu Lâm. Ai cũng biết Ngài lấy Thiền làm gốc.

Một vị tổ sư của khí hiệp đạo (Aikito), ông Ueshiba đã từng nói: “Các người không thể quật ngã được tôi vì tôi đã hoà đồng cùng vũ trụ”. Qua những  lời trên của ông, cái thấm sâu vào trong tôi vẫn là chất Thiền. Thiền đã giải tỏa dục vọng và làm cho cảm giác lúc nào cũng nhẹ nhàng, tâm tĩnh, từ đó hòa vào mới mọi thứ xung quanh.

Thiền sư Hạnh Tư, người đứng đầu tăng chủng, học trò của Lục tổ Huệ Năng, có lần  cũng nói: “Khi chưa tham Thiền, nhìn núi là núi, nước là nước; lúc tham Thiền nhìn núi không phải là núi, nước không phải là nước; tới khi tham thiền khai ngộ, nhìn núi lại vẫn là núi, nước lại vẫn là nước”. Cũng giống thiền sư Hạnh Tư, theo lời của một tờ báo, con rồng châu Á Lý Tiểu Long, từng phát biểu: “Khi tôi chưa học võ, thấy quyền chỉ là quyền, thấy cước chỉ là cước; khi tôi đã học võ rồi, thấy quyền không phải là quyền, cước không phải là cước; khi tôi đã nhập vào chốn thâm sâu của võ, thấy quyền chỉ là quyền, thấy cước chỉ là cước.” (Theo tạp chí Black Belt). Đó là sự hài hòa các kỹ thuật võ học, biết biến cái kỹ thuật rườm rà về đơn giản, để có thể đạt thành quả tốt. Đó là sự tiếp xúc với triết lý Thiền đạo, dung hòa tư tưởng, tạo nên sự cách tân cho từng thế võ. Vì thế mà sư tổ Bồ Đề Đạt Ma qua sông Trường Giang, trở về quê hương của mình trong trạng thái phiếu du trên cành lau nhỏ bé.

Người xưa có nói: “Tập võ chuộng đức không chuộng sức. Sức tuy đả thương người nhưng chưa chắc tâm phục, còn có đức tuy lực kém mà mọi người tâm phục, khẩu phục”. Cho nên “Đức” là phẩm chất của người luyện võ, là tiêu chuẩn để dự đoán một người mới học võ có thể đạt được chân công hay không. Các võ sư phần nhiều rất chú trọng đến việc huấn luyện và bồi dưỡng võ đức, đã chế ra một hệ thống các quy định giới cấm, bắt buộc người học võ phải tuân thủ nghiêm ngặt.

Thời nhà Minh, trong Thiếu Lâm thập điều giới ước có ghi: “Truyền dạy học trò cần chọn lọc thận trọng, nếu xác nhận là kẻ sĩ thật thà giản dị, đạo đức, trung nghĩa thì có thể mang kỹ thuật truyền cho…”; “Người tập luyện ấy khỏe thể xác, tâm hồn làm tông chỉ trọng yếu, quen luyện tập sớm tối không được tùy ý ngưng nghỉ…”; “Lấy lòng từ bi của Phật gia làm gốc, tinh thông võ nghệ chỉ để tự vệ, không vì huyết khí cương cường mà ham đấu đá”, “Hằng ngày phải tôn kính Sư trưởng, ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, không được có hành vi chống cự hoặc ngạo mạn”.

Từ xa xưa các bậc Đại võ sư đã luận về các cảnh giới của võ thuật có 4 bậc: 

1, Võ quyền cước, luyện để thân khoẻ mạnh, sức có thể đập vỡ núi đá, nhổ bật rừng cây, nhanh nhẹn như rồng cuộn hổ vồ, trước muôn ngàn đao kiếm không bận tâm, được như thế chỉ là cảnh giới thứ nhất. 

2, Võ trí, là học và luyện võ nhưng biết dùng trí để lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy nhu thắng cương, lấy chậm thắng nhanh. Võ trí chuyển được núi, đổi được sông bởi “trí cao trời người trọng”, cảnh giới đó phải trên võ quyền cước một bậc. 

3, Võ đức, là cảnh giới thứ ba, không cần ra đòn mà đối phương đã chịu quy phục bởi “đức lớn quỷ thần kinh”, người có đức thì quy thuận được lòng người. Thâu nhiếp được thiên hạ, có đức mọi người đều hết lòng tin theo, ngồi một chỗ mà thâu tóm tất cả. 

4, Võ tâm, không cần lộ chiêu, xuất quyền mà nghe danh, thấy người đối phương đã phải hạ khí giới, bỏ dã tâm xấu để quy thuận. Võ tâm mạnh đến mức gom được trời đất, chuyển được nhân luân, thay đổi được phong hoá. Võ tâm là cảnh giới cao nhất gồm trọn cả võ quyền, võ trí, võ đức.

Võ tâm là cảnh giới cao nhất trong luyện võ, “vạn pháp quy tâm”

Những người tập luyện võ thuật, tâm họ rất tĩnh, những dục vong “tham – sân – si” không còn chi phối hành động và suy nghĩ của họ được nữa. Bỏ bớt được những dục vọng đó, người ta dễ nhận ra nhiều hành động tốt, nhận biết thế giới xung quanh sâu xa hơn, từ đó điều chỉnh được bản thân theo đúng ý muốn, biến những thứ phức tạp thành đơn giản.

Thiền trong luyện tập võ thuật cũng như việc tìm kinh tu tâm, là con đường đi đến một trạng thái nhất định nào đó. Khi trạng thái này đạt đến đỉnh cao, con người quên đi vui buồn thế thái, quên những đau đớn tinh thần lẫn thể xác. Chúng ta trở nên nhẹ nhõm, thanh thản, cảm tưởng mình chỉ như một chiếc lá, hay một cơn gió nhẹ thoảng qua…

Bởi vậy mà ta biết khả năng của con người là vô hạn, có thể biến những cái tưởng như không thể thành cái có thể.


Chuyện Thiền kể rằng: Một võ sĩ đạo (Bushido) sau nhiều năm công phu luyện tập võ thuật, đạt trình độ võ công thượng thừa, thắng tất cả huynh đệ đồng môn trong các võ quán, hóa giải thành công các chiêu thức bí ẩn của thầy. Hạ sơn hành hiệp trượng nghĩa, Võ sĩ đạo gặp cao thủ võ lâm thì thắng, gặp người bình thường thì thúc thủ.

Võ sĩ đạo nghĩ rằng võ công mình thụ đắc còn thiếu một điều gì, giống như chuông khi gióng lên thì kêu to nhưng không có tiếng vang tiếng vọng; nghĩ vậy liền khăn gói lên đường tầm sư học đạo, đến diện kiến một Thiền sư trên núi cao, cùng cốc. Thiền sư dạy: “Hằng ngày con bửa củi, nấu cơm, quét dọn rồi công phu tu tập thiền định”.

Ngày qua tháng lại, hết Xuân đến Hạ, hết Hạ đến Thu, giữa mùa Đông năm ấy, Thiền sư gọi Võ sĩ đạo vào Thiền đường căn dặn: “Năm nay Đông buốt giá, con chuẩn bị củi đốt lửa sưởi ấm”.

Hằng đêm bếp lửa bập bùng trong tĩnh lặng, thầy thiền định, đệ tử thiền định. Rồi củi cũng vơi dần và hết sạch. Đêm nay không củi.

Võ sĩ đạo bối rối: “Bạch thầy, củi đã hết phải ra ngoài cốc sang bên kia núi mới tìm được”.

“Không tìm bên ngoài” Thiền sư nói, “Tất cả những gì có thể chẻ được để đốt lửa thì cứ lấy”.

“Thưa thầy, có cái bàn bằng gỗ nhưng là cái bàn”, Võ sĩ đạo ấp úng.

“Chẻ cái bàn ra đốt lửa”. Thiền sư bảo Võ sĩ đạo.

Rồi mọi thứ bằng gỗ trong cốc cũng hết. Võ sĩ đạo hoang mang, tối nay không có lửa sưởi ấm cho thầy. Đêm đến, không khí lạnh mùa Đông tràn vào cùng cốc.

Võ sĩ đạo thưa: “Bạch thầy, không còn gì nữa cả”.

Thiền sư chỉ tay lên bàn thờ Phật và hỏi: “Cái gì kia?”

Võ sĩ đạo đáp: “Thưa thầy, tượng Phật”.

Thiền sư lại hỏi: “Tượng Phật bằng gì?”

“Võ sĩ đạo cung kính: “Bạch thầy bằng gỗ.”

“Bằng gỗ đốt được không?” Thiền sư hỏi.

Võ sĩ đạo hoảng hốt: “Thưa thầy đốt được nhưng là tượng Phật”.

Thiền sư lạnh lùng: “Bửa ra làm củi, đốt!”

Tượng Phật được bửa ra đốt lửa sưởi qua đêm. Thầy và trò thiền định. Lửa đã tàn. Đêm cũng tàn.

Thiền sư hỏi Võ sĩ đạo: “Con thấy gì không?”

Võ sĩ đạo đáp: “Thưa thầy, con chỉ thấy một đống tro than”.

Thiền sư chỉ tay ra ngoài cốc và nói: “Hạ sơn!”

Từ đó về sau Võ sĩ đạo không có ai là đối thủ. Anh ấy đã chiến thắng chính bản thân mình.


Thiền sư Duy Tín đời Tống nói về hành  trình tu tập của mình, từ lúc đầu cho tới khi ngộ đạo, với ba câu ngắn như sau: “Trước khi gặp thiện tri thức, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông”. Người 20 tuổi thấy núi là núi, sông là sông; người 35 tuổi nhìn núi lại không phải núi, sông lại không phải sông; chỉ có người 50 tuổi mới đạt tới cảnh giới trí tuệ cuối cùng.

"Sống bình thường là tu.  Tu bình thường là đắc."  Câu này vừa đúng vừa sai!  Đúng ở chỗ là chúng ta sẽ đắc được “cái bình thường”, hay cái sanh diệt, có đó mất đó. Qua việc tập võ hay thể thao, chúng ta có được sức khoẻ để an vui trong cuộc sống, phục vụ nhân sinh, hay thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên.  Nếu đạt được những điểm này là chúng ta đã quá hạnh phúc lắm rồi.  Nhưng để tiến xa hơn nữa, chúng ta phải nhắm đến cái “bất sanh diệt”. Chính tu cái “bất sanh diệt” này mới giúp chúng ta thoát khỏi vòng sanh tử  luân hồi và đem phần đại thừa của võ đạo đến gần tinh thần đại thừa của Phật giáo hay tinh hoa của các tôn giáo lớn. Cái “bất sanh diệt” đó là gi`? Đó là cái thần thức trường tồn bất biến đã đi theo chúng ta hằng muôn kiếp.  Làm thế nào để đạt được cái “bất sanh diệt”?  Tu sửa bản thân, thiền định, và luôn tích luỹ thiện nghiệp qua các hành động phát xuất từ cái “tâm” thật sự thương cảm người được giúp mà không làm vì “tướng” (vì bổn phận, chức vụ, hư danh, lợi lộc hay làm cho có).  Một đoá hoa sen nở rộ trong tâm, và vô số các hoa sen sau đó. Ánh sáng trí huệ xóa tan bóng đen của sự vô minh. Lõa lồ cái “Vô Đắc”!


(Nguồn: Nguyễn Quang Đức, huongtamlinh, vocotruyenvietnam, chuahoangphap)

Post a Comment

0 Comments